Mấy cái
ông nhà văn nhà thơ thường hay vẽ vời hoa lá, bốc thơm mấy người phụ nữ
chúng tôi nên đã viết và ví von rằng:“Sau lưng sự thành công của người đàn
ông, bao giờ cũng có bóng dáng của người phụ nữ “ sao mà nịnh đầm hay
thế.
Thì đúng là sau lưng mấy ông chồng mà không có bóng dáng của
người vợ thì mấy ông, nhất là mấy ông lính Thiết Giáp, những anh chàng lúc nào
cũng tự ca tụng mình như là “Thiết Giáp hào hoa, lịch sự … thì thế nào
đôi mắt mấy ông đó cũng láo liên tìm kiếm bóng dáng các người đẹp khác. Do đó
cho chắc ăn, mấy bà vợ TG thường vẫn có thói quen là lẽo đẽo theo vết xích của
chồng, dù có phải rày đây mai đó, cho chắc ăn vậy mà.
Nhưng tôi thì ngược lại, dầu rằng bản thân cũng rất muốn lẽo
đẽo theo sau lưng ông chồng yêu quí, nhưng khổ nổi, kể từ khi “nâng khăn sửa
túi cho chàng” Ba tôi nhất quyết không cho đứa con gái bé bỏng của mình theo
chồng đến những nơi súng đạn nguy hiểm.
Nhân chuyện này, ngồi nghĩ lại cái chuyện “theo chàng hay
không theo chàng” vẫn tưởng như mới hôm qua đây, thế mà thời gian qua nhanh
quá, bây giờ cả “Chàng lẫn Nàng” đều đã qua cái tuổi “Thiên Mệnh” từ ngày nào
xa xăm lắm rồi.
Là một người con gái được cưng chiều trong gia đình những
năm 1952-53, Ba tôi làm quản lý cho CLB Sĩ Quan thuộc Bộ TTM trên đường Trần
hưng Đạo nên tôi thường được Ba tôi dẫn đến nơi làm việc của ông (tìm chồng
giửa chốn ba quân).
Dạo đó các sĩ quan ra vào nơi đây thường là mấy ông cấp Tá
trở lên, rất ít người cấp Úy? Chẵng hiểu mấy ông quan này đi lính từ thời
nào mà lên đến Mai Bạc? Chắc từ thời Bảo Đại còn làm vua.
Cũng tại nơi Ba tôi làm việc này, một chàng trai tuổi đôi
mươi (trông rất bảnh bao !!..) thường lảng vảng gạ chuyện cô bé ... Thoạt đầu
thấy chàng, tôi cũng coi chàng như “hàng mớ” mấy ông quan khác mà thôi. Thế
nhưng chính cái mũ đen có chiếc xe tank đội ngạo nghễ trên đầu chàng đã làm con
bé thấy... thích thích, vui vui …
Dần dần những lúc không thấy bóng dáng chàng, tự dưng con bé
thấy... nhớ nhớ cái anh chàng đó từ lúc nào không rõ, dầu rằng cứ mỗi lần chàng
ta “thả ong” ve vãn là con nhỏ mặt cứ khinh khỉnh chả thèm... tiếp chuyện dù
trong lòng có lúc cũng thấy sao mà tim phổi cứ nhảy loạn cào cào cả lên.
Sau khi dẹp loạn Bình Xuyên xong, anh chàng khăn gói lên
Dalat theo học khóa 11 sĩ quan hiện dịch (đồng môn với Nguyễn đức Dương - Huỳnh
kiêm Mậu - Trần văn Nô - Nguyễn hữu Lý - Nguyễn văn Tá ). Từ ngày đó, con
bé thường xuyên nhận được những lá thơ của chàng SVSQ Dalat từ kbc 4027
gởi về kể chuyện sương gió, đồi thông, mây nước Hồ Than Thở cho con bé nghe,
thấy tôi nghiệp ghê vậy đó. Rồi những cánh hoa pensée ép trong là thơ màu
xanh, màu hồng của chàng càng làm con bé thêm rạo rực, mỗi lần nhận thơ... Thế
nhưng con bé nhất định không thèm hồi âm anh chàng, bắt chàng ta phải viết thật
nhiều hơn nửa (đúng là mưu mô con gái). Với số lượng những bức thơ tình tuổi
mới lớn dạo đó, nếu túng quẩn có thể đem cân ký cũng mua được khối gạo đễ ăn
...!!
Rồi chàng về Thủ Đức học tiếp khóa 3 CBTG (kbc 4100) sau đó
về phục vụ tại Trung Đoàn 1 TG (kbc 4956) tại Hạnh Thông Tây – Gò Vấp; đơn vị
trưởng là Thiếu Tá Hoàng xuân Lãm – chi đoàn trưởng là Trg. Úy Nguyễn trọng
Luật và chàng là chi đội trưởng chi đội 2 Thám Thính (xe AM nồi đồng).
Nhớ lại cái dạo đó, cô học sinh trường Marie Curie vẫn còn
bé bỏng lắm, ngồi ngoan ngoãn trong lớp học nghe thầy cô giảng bài, thế mà bên
ngoài khung cửa sổ, nơi có những hàng cây cao rợp bóng đường Công Lý, một chàng
trai trẻ đầu đội nón đen cứ lởn vởn trông ngóng trước khung cửa rào, tìm kiếm
chờ đợi nàng tan học về, làm tim con bé cứ rạo rực hẳn lên, dù ngoài mặt cứ
lạnh như tiền...
Rồi thời gian qua đi, và lòng người cũng đậm đà thêm lên qua
những vấn vương, nhưng nổi nhớ không tên… khi con bé không nhìn thấy bóng dáng
chàng nơi cửa trường mỗi khi tan học. Đó là những lúc chàng phải hành quân mãi
tận vùng Tây Ninh – Bình Long…xa xăm. Những lần như thế con bé dặn lòng rằng sẽ
chẵng thèm nhìn chàng, nói chuyện với chàng nữa … giận chàng cho bỏ ghét. Nhưng
sau đó, cái bóng dáng anh chàng mũ đen cứ lỡn vỡn trong tâm trí làm con bé
không thễ giử được lời hứa mỗi khi gặp chàng trở lại.
Là con gái của một ông quản lý CLB hàng đầu của quân đội
VNCH, nơi mà hàng ngày cả trăm sĩ quan từ khắp các đơn vị đến ăn uống,
hội hợp, ve vãn… Thử hỏi có chàng lính trẻ tác chiến nào cảm thấy “an toàn” khi
đã đem lòng thương nhớ cô gái đó?... Anh chàng Trung Úy Sơn Ca bèn tấu khúc
“mai mối” để hỏi con bé về làm người tình trăm năm. Con bé khi nghe lời tỏ tình
dũng mảnh của chàng thấy như hàng trăm ngôi sao trên trời trong mắt đang nhảy
múa … bèn bẽn lẽn về thưa chuyện cùng Ba. Ba vấn kế ông ngoại – các cô chú nội
ngoại; cuối cùng cả nhà đồng ý. Thế là đám cưới nhà binh xảy ra vào ngày
20-5-1960 khi con bé chỉ vừa ra khỏi cổng trường Trung Học.
Từ ngày đó, con bé bắt đầu nếm mùi thế nào là vợ lính. Bao
nhiêu mộng mơ ngày còn cắp sách đến trường đều tan biến theo những ngày tháng hành
quân của chồng. Lúc chàng ở Bình Dương thì những vườn cây trái thơm ngát không
còn là những ước mơ của cô bé năm xưa nữa, mà thay bằng những nỗi hồi hộp lo âu
cho số mệnh của chàng. Khi hành quân vùng LongKhánh, thì những bụi đỏ hành quân
đã phủ lấp những ngọt ngào thuở hai người mới quen... Muốn lên thăm chồng mà Ba
thì vẫn khắc khe như ngày con bé còn trong vòng tay gia đình: "Nơi đó đầy
súng đạn con lên đó làm gì cho vướngbận người ta...".
Mãi đến khi Sơn Ca làm Thiết Đoàn Phó Th. Đ 5/KB
mới được phép hay là đánh liều lên thăm chàng. Hai mẹ con, thằng con trai lúc
đó 8 tuổi, khăn gói lên đơn vị thăm chồng lần đầu tiên tại Xuân Lộc, nơi đặt
BTL Sư Đoàn 18/BB. Cái khung cảnh một trại lính với những chiếc xe tăng bám đầy
bùn đất, những người lính trẻ ra vào nơi công xưởng sửa chửa, văn phòng, những
hàng rào kẽm gai giăng mắc tứ tung làm hai mẹ con như lạc vào một nơi chốn xa
lạ. Cái lạ nơi xứ đất đỏ này mà tôi chưa từng thấy tại Saigon, đó là nơi trước
cửa nhà nào cũng đều có một cây sắt bắt ngang để gạt đất sình dính trên giày.
Rồi nhũng tiếng đạn pháo bắn ì-ùng liên tục, chẵng hiểu từ đâu bắn làm cái mái
nhà rung rinh mỗi khi tôi nghe tiếng súng.
Sau bửa cơm chiều từ Câu Lạc Bộ về thì trời xập tối, hai mẹ
con trở về nhà vì lúc đó Sơn Ca còn bận hợp hành gì đó, thế là cả hai leo lên
giường nằm vì biết đi đâu bây giờ trong cái doanh trại giăng đầy kẽm gai chung
quanh?..
Nằm trên giường tôi tự hỏi không lẽ đời sống của mấy ông
lính buồn thảm như vậy sao? nghỉ thật thương cho những người lính và thương
nhiều hơn nữa cho những người làm vợ lính .!!!. Đang ngon giấc, tôi chợt nghe
đâu đó mấy tiếng súng bắn bóp bóp... gần lắm, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra? Chồng
tôi bật dậy nói vắn tắc: Mẹ con cứ nằm đây, anh phải chạy lên phòng hành quân
ngay.
Tiếng súng càng lúc càng gần và nhiều hơn. Cả hai mẹ con ôm
lấy nhau vì sợ hải, đây là lần đầu tiên trong đời tôi nghe được tiếng súng gần
như thế. Ngay lúc đó, người tài xế chạy vào căn phòng nơi hai mẹ con
chúng tôi đưa cho mỗi người một cái nón sắt và một chiếc áo giáp bảo mặc ngay
vô; tôi luống cuống không làm sao mặc được cái áo giáp vì nó nặng quá với tôi
từ trước đến nay, còn chiếc nón sắt thì cứ nghiêng bên này rồi lại nghiêng qua
bên kia vì mái tóc bới của tôi; miệng tôi cứ run lên cằm cặp vì sợ, tôi định
hỏi chú tài xế xem có chuyện gì xảy ra mà súng bắn nhiều vậy, nhưng không làm
sao mở miệng ra được, răng đánh lập cập với nhau nghe rỏ từng tiếng. Sau khi
hai mẹ con mặc áo giáp và đội nón sắt xong chú tài xế nói : “Bây giờ chị và
cháu chạy theo em và phải chạy thật nhanh vì ở đây không bảo đảm,
sợ bọn VC tấn công vào đây vì nhà gần cổng ra vào.”
- Mình
chạy đi đâu bây giờ hả chú?
- Chạy
sang bên kia sân, gần nơi Thiếu Tá có hầm tránh đạn cho chị và cháu.
Thế là cả 3 người mau chóng chạy qua một khoảng sân
rộng, vừa lạnh vừa sợ. Khi gặp lại được chồng và Trung Tá Thoàn Thiết Đoàn
Trưởng, hai anh lại nói chú tài xế hướng dẫn đưa hai mẹ con về phía Chi Đoàn
gần đó. Mặc dù rất sợ nhưng vẫn còn một chút tò mò muốn xem đạn nó bắn ra làm
sao. Trong lúc đang chạy, tôi vẫn cố ngoái đầu lại nhìn… những viên đạn màu
xanh màu đỏ không có bay nhanh như mình tưởng tượng, nó cũng từ từ… thế là sau
khi ra đến khoảng trống an toàn, hai mẹ con ngồi nhìn “pháo bông” mà miệng đánh
bò cạp.
Cuộc tấn công của VC chấm dứt sau 2 giờ nổ súng của cả 2 bên.
Ngay sáng hôm sau, khi trời vừa hừng sáng là hai mẹ con nhanh chóng cuốn gói về
Biên Hòa; trên đường đi còn nhìn thấy xác mấy tên VC nằm ngổn ngang ngay lối
vào doanh trại và dọc theo hàng rào bên phía SĐ 18 BB. Hú hồn!!...
Vừa về đến nhà, thấy sắc mặt hai mẹ con nhợt nhạt như tàu lá
chuối xanh, Ba tôi mắng cho mấy câu: “Tao đã nói chổ lính tráng mà còn tơí
đó làm chi ? “
Thế nhưng chính những nỗi sợ hải và sự nguy hiểm nơi doanh
trại những người lính mà mẹ con tôi sau vài tuần lại khăn gói lên thăm chồng,
thăm cha nhiều hơn trước đây. Thường thì chúng tôi rời Saigon lúc 5 giờ chiều
sau khi tan sở làm. Trong những lần ra khỏi những nơi xôi bồ của Saigon, tôi
cảm thấy thú vị, được thả tầm mắt mãi tận chân trời xa, được nhìn thấy ruộng
đồng, đồi núi, rừng cây, được ngửi mùi thoang thoãng hương cỏ hai bên đường.
Đến gần các doanh trại quân đội, nhìn những người lính với ba-lô, súng đạn, lầm
lũi trong ánh sáng chập choạng của hoàng hôn ra các điễm phục kích đêm, thấy
thương cho đời lính vô cùng. Đúng là “đi một ngày đàng - học được một
sàng khôn”. Cô nữ sinh trường đầm thơ ngây năm xưa, nay đã dày dạn thêm lên với
những va chạm của thực tế vây quanh. Đặc biệt là cuộc sống của người lính tác
chiến đã dạy cô rất nhiều điều mà không một trường nào dạy cô trước đây.
Mẹ con chúng tôi được dành cho ở trong một căn nhà
bênh cạnh CLB của đơn vị, nơi đây có chiếc radio mở liên tục suốt ngày. Những
lúc ở Saigon, ồn ào và nhiều chuyện phải làm, tôi chẳng có thời gian đâu mà
nghe radio. Nhưng khi đến nơi xa lạ này, không có một cái gì đễ giải trí, thì
chiếc radio chính là nguồn vui duy nhứt cho những người lính và cho chính tôi
bây giờ nữa. Tôi thích nhứt chương trình Trường Sơn của nhạc sĩ Duy
Khánh vào mỗi sáng chủ nhựt, nghe riết rồi đâm mê lúc nào không hay. Toàn những
bản nhạc nói về người lính hợp với tâm trạng thời đại nghe thích vô cùng. Mặc
dù có Ba là lính, chồng cũng là lính từ lâu, nhưng đến tận lúc này, được nằm
ngay tại doanh trại của lính, tôi mới thật sự thấy thương cảm với người lính
một cách đúng nghỉa nhất .
Lâu lâu đơn vị cũng có một “Live Show” do lính hát lính nghe;
các ca nhạc sĩ đều là những chàng trai trẻ mũ đen, hát thật hay, chẵng thua gì
các ca sĩ tại Saigon. Ban nhạc có một cây đàn ghi-ta, một bộ trống và một
đại-hồ-cầm làm bằng chiếc kann đựng xăng nhưng nghe thật ấm. Trong những buổi
ca nhạc bỏ-túi này, khán giả cũng đông nghẹt cả sân trình diễn.
Bao nhiêu kỷ niệm theo chồng cứ ngày càng chất chồng trong
tâm trí tôi. Từ Th-Đ 1 đến Th-Đ 5, qua Th-Đ 18 Kỵ Binh; nơi đâu có vết xích
chàng thì nơi đó cũng có dấu chân tôi … Đễ rồi ngày 28/4/75 tôi phải rời xa
chồng trong nổi sợ hải không cùng, khi cùng với gia đình lên máy bay di tản ra
nước ngoài vào đúng ngày Nguyễn thành Trung lái máy bay thả bom sân bay Tân Sơn
Nhứt. Chuyến máy bay ấp chót đưa mẹ con tôi và gia đình đến Clark Air Base (Phi
luật Tân) rồi chuyển qua Đão Wake ở đó 1 tuần và vào Mỹ trại Fort Chaffee
(Arkansas) đễ được người em bảo lảnh về Peekskill (N.Y). Ra đi trong lo sợ cho
bản thân và cho cả số phận của chồng, không biết ngày nào mới gặp lại nhau …Trong
lúc tôi ở Fort Chaffee thì được tin của Red Cross cho biết anh Sơn đang ở
Guam. Rất may không lâu sau đó gia đình được xum hợp và cuối cùng chọn Houston
làm quê hương thứ hai.
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong năm 2004 mang một sắc thái rất đặc
biệt đối với tôi vì trùng vào Ngày Phù Đổng Thiên Vương - vị thánh tổ của binh
chủng Thiết Giáp đơn vị mà chồng tôi đã phục vụ 20 năm liên tiếp qua rất
nhiều chức vụ khác nhau. Điều vui mừng hơn nữa, chính ngày này, trong bửa cơm
thân mật của gia đình Mũ Đen, tờ Đặc San KỴ BINH đầu tiên ra đời, đã mang đến
cho mọi người một niềm vui thật lớn.
Hơn một phần tư thế kỷ đã qua đi với bao đổi thay của thế sự
dòng đời. Nhưng những kỷ niệm dù nhỏ nhoi trong đời sống của một người “vợ
lính” vẫn đầy ấp trong tâm hồn tôi, để mỗi khi nhớ lại vẫn thấy thương những
người lính vô cùng, nhất là những người còn sống sau ngày 30/4/75.
Sơn Ca Bà
Bà
(Riêng
tặng các người vợ Lính Mũ Đen)