Friday, March 20, 2020

Xin Gửi Cho Nhau Niềm Hy Vọng


Lắng nghe chiều xuống thành phố mộng mơ
màu lam tím Đà Lạt sương phủ mờ
từng đôi đi trên phố vắng
bước chân em giữa không gian, hoàng hôn thua màng đêm...
Đứng trên triền dốc nhìn xuống đồi thông 
Hàng cây thẩm màu đèn lên phố phường
Giờ đây hơi sương giá buốt
Biết ai thương bước cô liêu
Một người đi trong sương rơi...
Đà Lạt ơi, có nghe chăng Cam Ly... khóc tình đầu dang dở!
Đêm xuống Than Thở vang cung hờn, thêm sắt se tâm hồn 
Người đi trong bóng cô đơn...
Khách du tìm đến thành phố ngàn thơ
Nhặt hoa thấy buồn lòng không bến bờ
Gần nhau, xa nhau mấy nỗi
Hỡi quê hương xứ sương rơi... Đà Lạt ơi, Đà Lạt ơi!"  

Trích trong bài viết "Đà Lạt Và Những Kỷ Niệm Về TVBQGVN" Của Giáo Sư VHV Lê Đình Cai :


...Tôi nhớ lại thêm một kỷ niệm nữa… Vào một buổi sáng khỏang 10 giờ, một cuộc họp tòan thể giáo sư Văn Hóa Vụ được tổ chức tại hội trường với sự chủ tọa của Thiếu Tướng Lâm Quang Thi. Hồi đó giáo sư văn hóa vụ ngòai một số dân sự như chúng tôi ra, đa số là các giáo sư bị động viên rồi được biệt phái lên giảng dạy tại trường và họ phải mặc quân phục, theo kỷ luật quân đội như trong một quân trường. Còn chúng tôi vẫn mặc thường phục và chỉ có mặt ở trường khi có giờ dạy mà thôi.
Tướng Lâm Quang Thi, sau khi trình bày một số vấn đề liên quan đến việc dạy dỗ sinh viên, ông nhìn qua mấy anh em dân sự và nói: “Tôi muốn kể từ tuần tới, các vị giáo sư dân sự nầy phải hớt tóc ngắn như các vị sĩ quan, chứ không thể để tóc dài chải tém như thế nầy được.”
Tôi cảm thấy đây là một mệnh lệnh không hữu lý nên xin phát biểu. “Thưa Thiếu Tướng, chúng tôi là các giáo sư dân sự, hiện đang dạy tại Đại học Đà lạt, được Bộ Quốc Phòng điều qua dạy văn hóa tại Trường Võ Bị nầy. Xin Thiếu Tướng cho phép chúng tôi được hớt tóc theo kiểu dân sự. Thiếu tướng nghĩ sao khi chúng tôi mặc veston, cà vạt mà lại hớt tóc qúa ngắn theo kiểu các sĩ quan thì coi sao được”. Nghe xong,Thiếu Tướng Thi im lặng…
Sau khi cuộc họp giải tán, Bùi Đình Rị đến nói với tôi; “Sao cậu liều vậy, ông Tướng sẽ đì cậu sói trán.”
Những ngày sau đó tôi cũng lo lắng không biết rồi ông Tướng sẽ có biện pháp gì với mình đây? Với quyền uy sinh sát trong tay, vị Tứơng chỉ huy của ngôi trường nầy có thể đẩy đưa định mệnh của đời tôi vào ngõ tối… Tôi lo lắng chờ đợi. Nhiều lần tôi định mang bức thư của Nghị sĩ đệ I Phó Chủ Tịch Thượng Viện gởi gắm để trình lên ông. Nhưng mỗi lần như thế lương tâm tôi lại chống đối.
 Nhiều bạn giáo sư đang khoác áo sĩ quan trong Văn Hóa Vụ cũng nói với tôi là cậu liều quá, chống lại lệnh của vị tướng chỉ huy trưởng như vậy là sẽ lãnh đủ…
Tôi chờ đợi… Một tuần, rồi hai, ba tuần… Không có gì xẩy ra cả. Tôi vẫn lên bục giảng và tiếp tục trách nhiệm giảng huấn của mình.
Vào giữa năm 1971, tôi đổi về dạy tại trường Đại học Văn khoa Huế và tại đây trong một dịp đón tiếpTrung Tướng Lâm Quang Thi, bấy giờ là Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đòan I, đến thăm viếng Đại học Huế, chúng tôi lại được dịp găp nhau và Tướng Thi rất vui vẻ: “Lại gặp ông giáo sư ở đây nữa rồi…”

Khi qua Hoa kỳ vào cuối năm 1994, tôi có dịp gặp lại Tướng Lâm Quang Thi nhiều lần trong các cuộc họp mặt gia đình Võ Bị Đà lạt tại San Jose . Và trong một dịp ra mắt sách năm ngoái tại Trung tâm Vivo về cuốn “Hell in An loc” của ông, tôi đã kể lại câu chuyện trên đây và hướng về ông Tướng, nguyên chi huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia, tôi phát biểu: “Thưa Trung Tướng, trong lòng tôi luôn giữ mãi niềm cảm phục đối với vị Tướng mà đã có lần trong đời mình làm việc dưới quyền. Lòng cao thượng và sự độ lượng của Trung Tướng mà tôi được cảm nghiệm, sống mãi trong tâm tư mình từ ngày ấy cho đến nay, dù biết bao đổi thay đi qua trong một đời người. Đằng sau khuôn mặt lạnh lùng của một vị Tướng với quyền uy sinh sát trong tay là một con người vị tha, đầy nhân bản. hình ảnh nầy của Tướng Lâm Quang Thi đã theo tôi từ tuổi thanh xuân cho đến bây giờ… ”
 Những ngày tháng ở Đà Lạt thật là tuyệt diệu. Thời khắc biểu hàng tuần của tôi vào những ngày thứ hai, tư, sáu là dạy tại Trường Võ Bị về môn quân sử học cho năm thứ 3 và 4 thuộc khóa 22B, khóa 23, 24.... Thứ ba và thứ năm, phụ trách giảng dạy môn "34 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725 )" cho sinh viên năm cuối ngành Cử Nhân Sử Học, và môn Phương Pháp Sử cho sinh viên năm thứ nhất. Tôi luôn luôn mặc veston, thắt cà vạt, khuôn mặt lúc nào cũng cố giữ nghiêm nghị vì nhiều sinh viên lúc đó lớn tuổi hơn tôi, (một số vị là linh mục, là đại đức, và có các vị đã là giáo sư của các trường trung học …), điều nầy khiến một số bạn bè thường đùa là tôi đã già trước tuổi.
Mỗi buổi sáng, trường Võ Bị đều có xe búyt đưa rước các giáo sư và nhân viên hành chánh từ thành phố đến trường vào lúc 7:00 trước chợ Hòa Bình và trở lại thành phố khỏang 4:30 chiều. Đi xe búyt thì ấm áp vô cùng vì trời Đà lạt rất lạnh vào sáng sớm nhưng cũng có điều bất tiện là phải đúng giờ và phải đến chiều khi tan sở mới trở về. Trong khi chúng tôi, có những lúc chấm dứt giờ dạy rất sớm. Vì thế, sau đó tôi đã sử dụng xe Honda để đến trường, nhưng phải trùm đầu, nai nịt thật ấm, hai tay phải mang găng mới dám vượt đọan đường khá xa từ Phan Đình Phùng (đọan gần Bệnh Viện thành phố), vòng quanh bờ hồ Xuân Hương, vượt qua nhà ga Đà Lạt, qua hồ Than Thở, rồi mới tới khu đồi của trường Võ Bị… Lạnh ơi là lạnh, nhưng cảm giác vô cùng thú vị.

Tôi đã dạy học ở đây gần hết một niên khóa. Mùa hè năm 1969, tôi quyết định về Huế cưới vợ. Nhà tôi là một nữ sinh trường Đồng Khánh, tôi quen trước đó ba năm, và đang là sinh viên năm thứ nhất trường Đại Học Khoa Học Huế. Lễ cưới của chúng tôi được cử hành vào tháng 5 tại tư gia và buổi tiếp tân vào buổi chiều được tổ chức tại Câu Lạc Bộ Thể Thao Huế bên cạnh dòng Hương giang thơ mộng.

Vài hôm sau, nhà tôi theo tôi lên Đà Lạt. Một kỷ niệm đáng nhớ, bạn bè chúng tôi đã tổ chức một bửa tiệc ra mắt cô dâu, hiền thê của tôi. Tham dự gồm quý bằng hữu, các sinh viên Sử học mà tôi đang dạy tại trường Văn Khoa, cùng sinh viên đại diện các khóa của trường Võ Bị Đà Lạt. Ấn tượng sâu sắc mà tôi và nhà tôi không thể nào quên là khi phái đoàn đại diện của trường Võ Bị đến tham dự, do SVSQ Lê Viết Đắc khóa 22B hướng dẫn (anh Đắc hồi đó là Trung đoàn phó trung đòan SVSQ), trong bộ dạ phục màu rêu nhạt với gù vai alpha màu đỏ rất đẹp. Mọi người tham dự lúc đó đều tự động đứng lên vỗ tay chào đón nồng nhiệt khi các anh em SVSQ bước vào phòng hội (một điều rất tình cờ là anh Đắc trước đây khi còn ở Huế là thầy dạy toán cho nhà tôi trong một lớp luyện thi). Chiều ngày hôm sau, tại quán cà phê Thủy Tạ trên bờ hồ Xuân Hương, các sinh viên ban Sử Học lại dành cho nhà tôi một buổi đón tiếp rất thân tình mà chúng tôi không thể nào quên dù đã hơn bốn mươi năm trôi qua kể từ ngày ấy.
 Có lần vào dịp cuối tuần, tôi dẫn nhà tôi vào thăm ngôi trường Võ Bị. Từ nhà khách ở ngay trước cổng trường, tôi chỉ cho nhà tôi ngọn núi cao nhất được gọi là đỉnh Lâm Viên đang ẩn hiện trong sương chiều mà tất cả khóa sinh Võ Bị đều phải chinh phục được trước khi làm lễ gắn alpha để thực thụ trở thành SVSQ của một trường Võ Bị danh tiếng nhất Đông Nam Á nầy.

Cuối năm 1969, sinh viên sĩ quan khóa 22B làm lễ ra trường. Đó là khóa đầu tiên cho chuơng trình 4 năm để nhận lãnh văn bằng tốt nghiệp, được Hội Đồng Liên Viện Đại Học Quốc Gia công nhận tương đương với Cử Nhân Khoa Học Nhân Văn và văn bằng Kỹ Sư Tạo Tác. Ngày lễ tốt nghiệp chính thức là ngày 12 tháng 12 năm 1969. Đêm trước đó là lễ truy điệu những anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân… Không khí vô cùng trang nghiêm, uy nghi và hết sức cảm động. Lễ tốt nghiệp chính thức được tổ chức dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Vũ Đình Trường. Sau khi Quốc Kỳ và Quân Kỳ được rước qua lễ đài, cuộc diễn binh hùng tráng với những bước chân oai phong và lẫm liệt của các chàng trai Võ Bị trong bộ lễ phục màu trắng, giây biểu chương màu vàng, gù vai alpha và rua màu đỏ rực, đã khiến bao người tham dự hết sức xúc động và vô cùng hãnh diện. Những chàng trai nầy quả là niềm hy vọng của Tổ Quốc ngày mai. Họ là những cán bộ lãnh đạo tương lai của đất nước với kiến thức vững chải về quân sự, cùng với trình độ học vấn của bậc đại học. Khi Tổng Thống gắn cấp bậc Thiếu Úy cho sinh viên Nguyễn Đức Phống, anh đã nhận cung tên để bắn đi bốn phương trời tượng trưng cho chí nam nhi tang bồng hồ thỉ. Các SVSQ khóa 22B quỳ xuống để nhận lãnh cấp bậc Thiếu Úy và đứng lên để trở thành tân sĩ quan hiện dịch của QLVNCH.

Ngồi trên lễ đài dành cho gíao sư Văn Hóa Vụ, nhà tôi và tôi chăm chú theo dõi diễn tiến buổi lễ với niềm cảm xúc dâng trào… (Sau này, khi nghe tin anh Nguyễn Đức Phống, sinh viên tốt nghiệp thủ khoa, đã tử trận trong khi tham dự trận đánh ở biên giới Việt Miên vào khỏang tháng 7 năm 1970, tôi hết sức bàng hòang và đau đớn, thương tiếc một cựu sinh viên, thông minh tài ba mà mệnh bạc…).
                                                        ***
 Bây giờ, trên xứ lạ quê người, khi tóc đã hoa râm, ngồi đếm bóng thời gian chờ ngày trở về với cát bụi, lòng người đôi khi chùng xuống với những hồi ức xa xăm của một thời trai trẻ. Những buồn vui nhiều khi cuồn cuộn trở về… Nhớ nhớ quên quên… Ghi lại những gì trong miền ký ức xa xôi ấy để được tâm sự với người thân, với bằng hữu, và cũng là một cách nào đó, cho mình được sống lại với những hoài bão không thành của một thời vang bóng… 
San Jose, những tháng ngày đi qua…

Lê Đình Cai

No comments: