Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh
vào Sài Gòn họp, tôi vào tới Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình
tôi vào gặp Tổng thống và Thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không
có ai khác. Thường lệ khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị
Tư lệnh Quân đoàn và Tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần nầy thì chỉ có một mình
tôi. Tôi thắc mắc lo lắng.
Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi và Ðà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giử và sẽ tăng cường Sư đoàn Dù cùng với Thuỷ Quân Lục Chiến ra nhửng vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ nhửng ý kiến của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp thuận.
Lệnh bất dịch di là: Phải rút khỏi
Quân đoàn I càng sớm càng hay. Trở ra Quân đoàn I, tôi cho triệu tập tất cả các
Tư Lệnh Sư đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các Sĩ quan trong buổi
họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rốt cuộc tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình
và nói vu vơ quanh quẩn.
Chứ làm sao tôi ra lịnh thẳng khi chỉ với một mình tôi là Tư lệnh Quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó chẳng mang lại một kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân đoàn I vào ngày 13 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên. Lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Cái lẩm cẩm của trung ương là không
cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các Tư lệnh các quân binh chủng,
Tổng Bộ trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, v.v… đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân
đoàn I và II cả. Lệnh nầy chỉ có Tổng thống và Thủ tướng, Ðại tướng Cao Văn Viên,
tôi (Tư lệnh Quân đoàn I) và Tư lệnh Quân đoàn II (Tướng Phạm Văn Phú) biết mà
thôi. Do đó thiếu sự phối họp chặt chẽ giửa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch
rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có đủ thì giờ để xếp đặt kế hoạch,
gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng
mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên
ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị chiếm,
Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Ðà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh
hoàng cho dân Ðà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.
Tôi ra lệnh cho Tướng Trần Văn Nhựt
rút Sư đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường
bể, sợ địch ra chiếm đóng đường biển thì sẽ khó khăn. Trong khi đó, cảnh hổn loạn
đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chổ nầy sang chổ khác làm cho binh
sĩ nao núng và chạy cùng theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân,
trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hằng ngày buộc anh
em phải giử không để mất một cục sỏi ở Vùng I.
Sau đó tôi suy nghĩ kỷ hơn. Tôi quyết
định gọi Ðai tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng thống cho tôi được dùng mọi cách để
giử Huế và Vùng I. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng I được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất
sỏi đá nầy mà bao nhiêu chiến hửu của tôi đã đổ máu để gìn giử? Nhất là trong vụ
Mậu Thân.
Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận
cho tôi giử Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp Tướng Lâm Quang Thi
(Tư lệnh phó Quân đoàn) chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giử Huế cho thật vửng.
Chiều hôm đó về đến Ðà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Ðại tướng Cao Văn
Viên, thừa lệnh Tổng thống yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Thật làm tôi chết lặng người.
Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho Tướng Thi giử Huế. Bây giờ đột nhiên
được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với Tướng Thi và anh em binh sĩ.
Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh
trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi
trả lời ngay: “ở Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng
tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao? Tôi buồn bã trả lời: “Tôi biết
rồi, nhưng xin anh bỏ Huế giùm tôi. Ðó là lệnh trên, không bỏ là không được”. Kết
quả là Tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu
Hải quân rút về Ðà Nẵng.
Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18
tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến
chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công,
mà lại thêm cái lệnh phải rút càng sớm càng tốt, lan truyền rỉ rả cho nên binh
sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin Thủ tướng ra quan
sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả vị
Tư lệnh Sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ tham mưu, và các Trưởng phòng sở của
hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.
Trước khi Thủ tướng đến, tôi đã nói
chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói
lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi nầy để Thủ tướng biết rỏ tình hình
và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giử thái độ “trình thưa dạ bẩm” trong lúc nầy
nửa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi Thủ tướng nói chuyện
xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng có ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em
không chịu nghe lời tôi để nói cho Thủ tướng biết nhửng sự thật về tình hình hiện
nay. Duy chỉ có một mình Ðại tá Kỳ , tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu:
“Thưa Thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý rời bỏ nhiệm
sở không đến làm việc, thưa Thủ tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt nhửng
người đó? Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả lời và lảng sang chuyện
khác. Vì Thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân đoàn I
và Quân khu I càng sớm càng tốt.
Ðúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được
lệnh rút Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến về giử Nha Trang. Ngày 29 tháng
3, cộng quân tràn vào Ðà Nẵng với nhửng trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm
HQ404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một Lử đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến. Khi tàu
chạy ngoài khơi, Tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Ðà Nẵng.
Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Ðà Nẵng? Lính
tráng đã phân tán mổi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao
tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Ðà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm
trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thuỷ Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một
mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu mặc dù lúc đó tàu đã cập bến Cam Ranh rồi.
Tôi nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ Tổng
tham mưu xin cho anh em Thuỷ Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi
cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thuỷ Quân Lục
Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài
Gòn.
Về đến Sài Gòn tôi được bổ nhiệm vào
Bộ Tư lệnh Hành quân lưu động ở Bộ Tổng tham mưu. Khi vào đây, tôi gặp Phó Ðề đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn
Khánh (Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung
tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có
chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị
phạt thì quả thật bất công.
Tướng Thi thực sự là người chống lại
việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng thống đã ra lệnh bỏ Huế
thì Tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: “Xã ấp tốt quá mà bỏ làm saỏ”
Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Nhửng vị tướng nầy bị phạt quá
oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần nhửng ông Tướng phe` phỡn tại Sài Gòn.
Hôm sau, trong buổi họp tại Bộ Tổng
tham mưu, tôi có nói rằng: “Việc phạt Tướng Thi và hai Tướng Thoại và Khánh là
không đúng. Họ chỉ là thuộc cấp của tôi. Họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi.
Họ không có tội gì cả. Nếu có phạt thì xin hãy phạt tôi đây này.” Phòng họp
lặng ngắt. Ðại tướng Viên nhìn qua Trung tướng Trần Văn Ðôn. Tướng Ðôn mới đi
Pháp về, mới đảm nhận chức Tổng trưởng Quốc phòng. Có thể vì vậy mà Tướng Ðôn mới
không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên Tướng Ðôn
làm đề nghị phạt Tướng Thi vì đã bỏ Huế mà rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không
dám nói sự thật với Tướng Ðôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, Tướng Lê Nguyên
Khang, với giọng giận giử đã buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội tình
mẹ gì cả!”.
Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường
hợp ra đi của Tướng Thoại và Tướng Khánh. Là vị Tư lệnh trong tay có đến hàng
ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hổn loạn,
Tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ Tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã
phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của hải
quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giử kỷ luật, thấy Ðề đốc Thoại ở đó, họ
ghé vào chở Tướng Thoại đi chứ nếu không lại cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao.
Còn Tướng Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân đã không đủ nhiên liệu để bay xa
mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó
gặp tàu HQ404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.
NGÔ QUANG TRƯỞNG
No comments:
New comments are not allowed.