Trong thời gian qua, nhiều người bạn và ngay cả một số đàn em hỏi tôi sao không chịu yên thân ở hậu cứ sau ngày bị thương nặng ở Bình Giả.
Khỏang giửa năm
1965, sau gần 6 tháng điều trị trong Quân Y Viện Đại Hàn, tại Vũng Tàu, tôi
đựơc xuất viện với đôi nạng gổ. Một tháng sau, tôi được gọi trở lại gặp Hội
đồng Y Khoa và đựơc phân loại 2 (phục vụ đơn vị không tác chiến). Điều dể hiểu
là tôi chỉ đi không chạy đựơc do vết thương làm mất 1/3 bắp thịt đùi phải và lỏm
mất thịt ở bắp chân phải.Nếu quyết tâm và chịu khó tập luyện, theo vật lý trị
liệu, tôi có thể đi đứng bình thường. Có một điều đã thấm sâu trong tâm khảm
tôi xuất thân là một Sĩ quan Hiện dịch được đào tạo từ trường Võ Bị Quốc Gia
tại Đà Lạt. Chưa đựơc một tháng sau, tôi đựơc lệnh về Sài Gòn trình diện Bộ Tư
Lệnh Liên Đòan Thủy Quân Lục Chiến đóng tại số 15 đường Lê Thánh Tôn.
Tôi khập
khiểng lên xe đò về Sài Gòn. Ngày hôm sau, tôi chống nạng vào trình diện Trung
Tá Bùì Thế Lân nguyên là Đại Uý khi tôi đến đơn vị ngày ra trường. Ông Lân
nhìn tôi như soi mói sau cặp kính cận dày của ông và chỉ nhếch mép nói cho tôi
vừa đủ nghe. “Ông cầm Sự Vụ Lệnh về trừơng Quân Cảnh Vũng Tàu nhập học
Khóa 3 Sĩ Quan Căn Bản rồi về đây lập Đại Đội 202 Quân Cảnh TQLC” Thế thôi rồi
ông cúi xuống tiếp tục đọc đống hồ sơ giấy tờ trứơc mặt. Tôi đưa tay chào rồi
lẳng lặng quay ra phòng Văn thư nhận SVL. Chưa bao giờ tôi thâý cô đơn như lúc
này. Cô đơn hơn cả thời gian tôi bò một mình trong rừng 2 đêm 3 ngày sau khi bị
3 phát đạn trong trận Bình Giả, vào ngày 31 tháng 12 năm 1964. Lúc này, Trung
Tướng Khang đã khá bận rộn với tình hình chính trị, sau ngày lật đỗ Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, nên mọi việc đều nằm trong tay của Trung Tá BTL là Tham Mưu
Trưởng. Tôi ghé nhà bà chị họ nghỉ tạm và lại lịt khịt lên xe đò đi ngựơc về
Vũng Tàu. Khóa 3 SQ Căn Bản Quân Cảnh gồm có khoảng 5o người với đa số
Chuẩn Uý mới ra trường Võ Khoa Thủ Đức , với văn bằng tốt nghiệp Đại Học Luật
Khoa và 2 vị mang cấp Đại Uý xuất thân Khóa 10 Võ Bi Liên Quân Đà Lạt. Ở
trường Quân Cảnh tôi lấy đựơc bằng thiện xạ súng Colt 45 nhờ bắn đựơc tay trái.
Bẩm sinh tôi thuận tay trái nên khi lên 5 tuổi tôi vào bàn ăn cầm đủa tay trái
đã bị ông thân đập một phát vào tay. Từ đó, tôi tập cầm đủa bằng tay mặt nhưng
khi cầm vật nặng như búa phải đổi tay trái. Do đó tôi rất thoải mái khi cầm
súng lục bằng tay trái. Tuy với một chân tựa trên nạng, sau 3 tháng tôi đã tốt
nghiệp Thủ khoa khóa 3 SQCB dưới quyền Chỉ huy Trửơng là Đại Uý Nguyễn Văn
Lựơc. Khi Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Quân Cảnh và Đại Uý Kinh, từ Bộ Tổng
Tham Mưu ra chủ tọa ông nói tôi đã bị thương ngòai mặt trận sao không về binh
chủng QC luôn. Tôi đáp là phải về lập Đại đội 202 QC cho binh chủng TQLC.
Đại đội 202 Quân
Cảnh gồm tòan những người lính và Hạ Sĩ Quan từ các đơn vị tác chiến tuyển
chọn về và cho đi học ngành Quân Cảnh. Từ đó họ hoạt động rất hữu hiệu và vững
chắc trong binh chủng TQLC, từ Hậu cứ đến khắp các nơi trên mặt trận. Lần đầu
tiên, vào chiến dịch năm Mậu Thân 1968, Đại đội 202 Quân Cảnh đã đựơc Trung Tá
Tôn Thất Sọan, Chiến Đoàn Trưởng CĐ147 TQLC trao tặng 1 Anh Dũng Bội Tinh với
nhành dương liễu và huy chương ADBT với ngôi sao đồng khi đã hộ tống
chuyển quân và tiếp tế cùng tãn thương qua các mặt trận ở Sài Gòn, Chợ Lớn và
Gia Định.. Ngày 1/10/ 1967 tôi đựơc lên Đại Uý thực thụ. Sang năm 1968, do
tình hình chiến sự tôi đựơc giao phó kiêm nhiệm Đại đội
trưởng ĐĐ Chỉ Huy Hành Chánh tức là Tổng Hành Dinh sau này và Trửơng Trại
Lê Thánh Tôn. Tuy nhiên, vốn là SQ ngành hiện dịch tôi tự thấy mình bị kẹt với
chức vụ đã “đụng trần nhà” với cấp bậc Đại Uý. Qua năm 1969, tôi xin đi
học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Trung Cấp tại Đà Lạt. Cùng khóa với tôi có
Thiếu Tá Lê Văn Hiền, Đại Uý Phan Công Tôn và Nguyễn Đăng Hòa. Ba tháng sau tốt
nghiệp trở về trình diện BTL Sư Đoàn, tôi được Đại Tá BTL gọi vào cho lệnh tôi
làm Trưởng Phòng I kiêm TP Tổng Quản Trị của Bộ Tư Lệnh, kể từ ngày 15/6/1969.
Lúc ấy Thiếu Tá Hoàng ngọc Bảo vốn xuất thân từ Truyền Tin đã đựơc chấp thuận
du học khóa Hành quân Thủ Bộ của TQLC Hoa Kỳ. Tôi phải tự học hỏi để đãm
nhận cả 2 chức vụ này. Đầu tiên, tôi yêu cầu các SQ và HSQ Trưởng Ban báo cáo
cho tôi biết công việc hàng ngày, hàng tuấn và hàng tháng của họ. Để rồi sau
đó, tôi xin các huấn thị điều hành căn bản của BTTM ra so sánh lại, để biết
việc và chấn chỉnh lại. Ngày 1/1/1970 tôi đựơc lên Thiếu Tá. Phụ tá của tôi bên
Phòng I là Đại Uý Nguyễn Văn Nhiên và bên Phòng Tổng Quản Trị là Đại Uý
Phan Kế Bạt. Phải công nhận nhờ vào vốn liếng học từ trường Võ Bị, tôi đã mau
mắn bắt tay vào 2 phần hành chuyên môn ngoài khả năng tác chiến. Với cấp số
chức vụ Trưởng Phòng TQT của Sư Đoàn là Trung Tá nhưng tôi không thích thú gì
khi phải làm những việc do cấp trên chỉ định, như thuyên chuyển một số SQ mới
ra Trường Thủ Đức về đơn vị này nọ không tác chiến, hoặc làm những bản tuyên
dương cho những người thật sự không có công trạng kèm theo cấp số huy chương do
BTTM hoặc Quân Đoàn cung cấp. Khi ấy, Trung Tướng Lê Nguyên Khang đã kiêm
nhiệm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô và Quân Đòan 3. Ông chỉ có độ nửa giờ ghé văn
phòng ký tên trên chánh bản.Còn lại đều do Đại Tá BTL ký hết. Kể cả việc phê
điểm hàng 3 tháng cho các Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trưởng Phòng của
BTL Tất cả đề nghị thăng thưởng , huy chương được đưa lên BTL Quân Đoàn hoặc
BTTM. Không ai từ chối bác bỏ khi thấy tên của T/ T Khang. Đó là những huy
chương “Ăn giổ” hay Huy chương “Lèo”. Có những người về làm Tham mưu ở Sài Gòn
nhưng nhờ được phê điểm 99/100 và huy chương “Lèo” nên lên Trung Tá, Đại Tá
trước cả bạn bè cùng khóa Sĩ quan ở đơn vị tác chiến. Có người lấy cả chục Anh
dũng bội tinh với nhành dương liễu theo kiểu “Ăn giổ”. Tôi chúa ghét nịnh hót
và luồn cúi nên ngày càng khó chịu. Đồng thời tôi tôi cũng nhận ra có thể mình
bị đưa ra đở đạn làm vật thiêu thân, nếu có tố giác tham nhũng từ phía trên do
Thủ Tướng Hương chủ trương. Từ đó tôi tìm cách rời khỏi Phòng TQT. Trước hết
tôi tư chuẩn bị một người thay thế bằng cách đề nghị đem Đại Uý Nguyễn Văn Diển
là Trưởng Ban I Tiểu Đòan 2 TQLC lên làm Phụ tá. Giửa năm 1974, Đại
Uý Diển lên tới Trung Tá trong khi tệ hạ còn mang lon Thiếu Tá dù cầm Tiểu
Đoàn ở Quảng Trị được một năm. Vừa đúng lúc, Mỹ lên kế hoạch rút quân và Việt
Nam hóa chiến tranh. Vào đầu tháng 6 năm 1971, đích thân Trung Tướng Lê
Nguyên Khang gọi tôi lên trình diện và cho lệnh tôi đứng ra thành lập Bộ Chi
Huy Căn Cứ lấy tên là Căn Cứ Sóng Thần, để nhận bàn giao căn cứ của Sư
Đoàn 1 Luc Quân Hoa Kỳ Taị ranh giới Dỉ An, Lái Thiêu và Thủ Đức. Ông còn nói
tôi giao cho ông vì không muốn tai tiếng xảy ra khi các đơn vị khác bán
buôn tham nhũng lúc nhận các căn cứ của Mỹ. Tôi mừng hết lớn.
Ngay sau đó, tôi đã
xin Đại Uý Tô Văn Cấp, xuất thân khóa 19 Võ Bị, đã bị thương nhiếu lần đang nằm
ở Khối Bổ Sung , cùng với Đại Uý Nguyễn Kim Tiến cũng bị thương từ TĐ3TQLC để
cùng tôi thành lập Bộ Chỉ Huy Căn Cứ Sóng Thần. Theo bảng cấp số đã được chấp
thuận, Căn cứ Sóng Thần do một Chỉ Huy Trưởng mang cấp Đại Tá, bao gồm Trung
Tâm Huấn Luyện TQLC và hậu cứ các Tiểu Đoàn TQLC trừ TĐ4 TQLC ở Vũng Tàu. Ranh
giới căn cứ tiếp giáp 3 quân hành chánh Thủ Đức, Dỉ An và Lái Thiêu (Bình
Dương). Trong ấy có cả một phi trường với phi đạo cho phi cơ vận tải C123.
Trong thơì gian từ tháng 9 năm 1971 đến tháng 6 năm 1972, Phi đoàn Trực
thăng 1/9 Không Kỵ Hoa Kỳ còn đồn trú trong căn cứ này, dưới sự phối hợp phòng
thủ của BCH Căn cứ Sóng Thần TQLC. Chỉ trong vòng 1 tháng sau khi nhận lệnh,
BCH Căn cứ đã thành hình và ngồi xuống tiếp nhận căn cứ, trong một buổi
họp với vị Đại Tá Chỉ Huy Căn cứ Sư Đoàn 1 LQ Hoa Kỳ.Theo lời bạn bè bảo tôi
lên như diều vì cấp số Chỉ Huy Trưởng là Đại Tá, sau ngày rời Phòng Tổng Quản
Trị Sư Đoàn.
Nhưng, vào đầu năm
1972, khi Tiểu đoàn 2 TQLC do bạn cùng khóa Võ Bị của tôi chỉ huy là Trung
Tá Nguyễn Xuân Phúc trở về nghỉ tại Hậu cứ sau cuộc hành quân. Hậu cứ này nằm
ngay trong Căn cứ Sóng Thần. Sáng hôm ấy, tôi lật đật chạy xe sang thăm bạn.
Bạn tôi vẩn còn độc thân vui tính nên cứ thế tôi ào ào đi thẳng vào phòng
riêng. Nào ngờ tôi đụng đầu ngay Ông Cụ thân sinh của Phúc, vốn là Giám Đốc Nha
Địa Dư Đà Lạt khi chúng tôi còn trong trường Võ Bị. Bên cạnh còn có thêm một cụ
nửa mà tôi đoán già đoán non là bạn của cụ thân sinh của Phúc. Cứ thế tôi vừa
chào hỏi vừa tự nhiên ngồi xuống ghế sa-lon. Tôi chưa kịp nói gì thêm bổng cụ
bạn đưa tay chỉ tôi nói tỉnh bơ : “ Sự nghiệp của ông này đến đây là chấm dứt rồi.
Không những thế sau này còn có thể nguy hại đến tính mạng hoặc đi tù ít
nhất 9,10 năm. Mà người này số mệnh đào hoa nên còn con rơi con rớt nửa. Thôi
nhé. Nếu muốn tránh đại họa thì nên đưa cả vợ con quy y cả đi là vừa.” Tôi vốn
loại phản ứng chậm nên thầm nghĩ chắc Ông Cụ này nói đùa chơi và thật sự tôi
cũng không tin bói toán.. Theo lẻ thường tôi đang trên đà đi lên trong binh
nghiệp vì giử chức vụ cao hơn 2 cấp. Mà tôi không tham ô nhũng lạm buôn bán vật
dụng trong căn cứ làm sao bị đi tù đựơc. Sau ấy tôi thấy cụ đứng lên theo chân
cụ thân sinh của Phúc đi nhìn quanh quẩn nơi ở của Phúc. Tôi thấy bất tiện lên
lẳng lặng đi về. Phúc đưa chân bảo nhỏ rằng “Đấy là cụ Diển ấy mày ạ” Tôi không
biết cụ Diển là ai nên cũng gật gật bắt tay bạn ra về. Khi hỏi lại tôi mới biết
cụ Diển là người xem Tướng và tử vi cho Tổng Thống Thiệu, vốn là bạn thân của
cụ thân sinh của Phúc, đã nhờ đến xem nơi ở và tướng cho Phúc. Tôi không biết
gì nên vô tình gặp mặt. Mãi về sau này, khi Phúc đã hi sinh ngòai mặt trận Đà
Nẵng, cuối tháng 3 năm 1973, tôi cố dò hỏi xem cụ Diển có nói gì về bạn của tôi
không nhưng được biết cụ giữ im lặng cho tớí ngày cụ qua đời. Thiên cơ bất khả
lậu chăng ? Còn tôi, mấy chục năm sau, nghĩ lại tự nhiên tôi thấy sao cụ
nói về tôi đúng quá. Tôi vẩn còn mang lon Thiếu Tá cho đến ngày 30 tháng 4 năm
1975, dù trên hồ sơ lưu trữ của Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ tôi đã lên Trung Tá từ ngày
1/1/1975, cùng với hai người khóa đàn em là Đinh Xuân Lãm K17 và Trần Văn Hợp
K19 vì quyết định không phổ biến. Sau ngày mất nứơc tôi đã bị đi tù khổ sai và
biệt xứ của CS đến 9 năm. Tuy vậy, sau khi nghe cụ Diển nói tôi cũng đưa cả gia
đình vào chùa quy y nên vợ con của tôi cũng không khổ ải dưới chế độ CS sau năm
75. Và tôi cũng có một đứa con gái với ca sĩ Thanh Trúc ở Saì Gòn năm 1972.
Dù rất cứng rắn và giử
mình trong sạch khi làm chỉ huy căn cứ Sóng Thần nhưng tôi không làm sao kiểm
soát nổi hai tay đàn em thân tín của Trung Tướng K. và Đại Tá BTL khi họ mang
những vật dụng và máy móc ra khỏi căn cứ với giấy cầm tay đưa cho Quân Cảnh.
Hơn nửa khi thấy nhiều cấp lớn hơn nhìn vào chổ ngồi Chỉ Huy Trưởng Căn cứ nên
tôi âm thầm lo tự học và rèn luyện thêm Anh Văn để xin du học tìm lối
thoát. Gặp đúng lúc, Mỹ cho Sĩ quan Việt Nam du học các Đại học Mỹ, theo kế
hoạch Việt Nam hóa nên tôi nạp đơn xin đi học khóa Kỹ sư Điện, dự trù vào cuối
năm 1972.Một tháng sau, tôi được gọi về thi Anh văn tại Trường Sinh Ngữ Quân
Đội với một vị Thiếu Tá Hải Quân và một Thiếu Uý Công Binh TQLC. Sau
hai cuộc khảo nghiệm sơ khởi và chung kết tôi đạt đựơc kết quả cao nhất là
93/100, so với vị Thiếu Tá HQ là 80/100. Thế là tôi được Phòng Cố Vấn Hải Quân
gọi về trình diện lập thủ tục du học.Sau khi đã may sắm quân phục xong tôi
được gọi lên Phòng Cố Vấn Hải Quân.Nơi đây báo cho tôi biết tôi không đi du học
được vì Tướng Buì Thế Lân đã gởi công điện hủy bỏ tất cả các khóa học trong và
ngoài nước dành cho Sĩ Quan TQLC vì nhu cầu chiến trường. Tôi lủi thủi quay về
để nhường chổ lại cho vị Thiếu Tá Hải Quân. Trong khi ấy, Đại Tá Nguyễn Thế
Lương và Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc được đề cử đi học khóa Chỉ Huy và Thanm Mưu
của TQLC Hoa Kỳ tại Quantico, Virginia. Nhưng sau kỳ thi khảo nghiêm cả hai đều
thiếu điểm 60/100 nên quay trở ra Quảng Trị. Phúc gặp tôi bảo” Tao là dân
Tóan nói tiếng Mỹ chỉ lèm bèm vài câu, lại cứ miệt mài hành quân riết có học
hành Anh văn chó gì đâu mà thi với cử.Chỉ mong có dịp về Sài Gòn xả hơi dăm
ngày thôi!” Phòng Cố Vấn TQLC Hoa Kỳ cho Tướng BTL biết cấp số mổi năm dành cho
TQLC Việt Nam chỉ có 1 chổ theo ngân sách. Nếu năm nay, TQLCVN bỏ trống có thể
sang năm không còn nửa. Cuối cùng, tôi được lệnh đi thay chổ ấy vì đã xong thủ
tục du học và bàn giao chức vụ cho Trung Tá Lê Bá Bình mới bị thương ở Đông Hà,
Quảng Trị.
Đầu tháng 8 năm 1972 tôi lên đường bay sang Quantico, Virginia nhập
học khóa Chỉ Huy và Tham Mưu của TQLC Hoa Kỳ trong 1 năm. Trong khi ấy, ngày 16
tháng 9 năm 1972, TQLC đã dựng cờ chiến thắng trên Cổ thành Quảng Trị. Tôi đã
hảnh diện thuyết trình ngắn với các đồng môn TQLC Hoa Kỳ tại Quantico,
Virginia. Đầu tháng 8 năm 1973, tôi quay về Việt Nam dù Nhà Trường cho tôi ở
lại Mỹ thêm 2 tháng đi du hành quan sát tại Đệ 6 Hạm Đội ở Địa Trung Hải.. Lúc
vào trình diện đã gặp ngay Tướng BTL về Sài Gòn nên ông bảo tôi bay theo ra
hành quân. Tôi hảnh diện nói với Tư Lệnh tôi đã tốt nghiệp Trường Chỉ Huy và
Tham mưu của TQLC Hoa Kỳ với cấp bằng hẳn hoi. Lần này ông cho biết tôi làm
Chánh Văn Phòng cho ông thay thế bạn tôi là Trung Tá Nguyễn Đằng Tống ra
TĐ4 TQLC. Tôi đáp ngay rằng tôi không có khả năng làm Chánh Văn Phòng. Ông tức giận
bảo ông chưa làm sao bảo không được. Ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn tại Hương Điền ,
Huế, Thiếu Tá Đặng Văn Học ngày xưa khi tôi đến TĐ4 là Chuẩn Uý Ban 1, được lo
chổ ăn ở cho tôi. Tôi lặng lẻ theo chân ông Tướng đi thăm các đơn vị trên chiếc
trực thăng luôn cất cánh đúng 10 giờ sáng và luôn bay ra hướng Đông trước rồi
đi đâu thì đi. Trong thời gian này, Trung Tá Joey Strickland nguyên là bạn cùng
khoá Chỉ Huy và Tham Mưu với tôi bên Quantico,sang Việt Nam làm Sĩ Quan Liên
Lạc của TQLC Hoa Kỳ làm việc trực tiếp với Tư Lệnh TQLC Việt Nam.Joey gặp tôi
và luôn tỏ ra rất thân thiện cho mãi sau này.Năm 1985, tôi và Joey đã gặp lại
nhau trong chương trình 20/20 của Barbara Walter trên hệ thống ABC. Đó là người
bạn Mỹ thứ hai thân với tôi sau Phil O Brady.Trung Tá Joey Strickland do bất
mản với cuộc rút quân của Hoa kỳ nên đã bị giải ngũ sau năm 1975. Cho đến một
hôm, Đại Uý Đan tùy viên của Tướng Lân bảo tôi theo lệnh Ông Tướng lên Trực
thăng bay ra Phi trường Phú Bài đón “Bà Tướng” đi Air Vienam ra thăm. Bất đắc
dỉ tôi phải đi.”Bà Tướng “ này , theo tôi biết là vợ của một Thiếu Tá Cảnh Sát
đã ly dị, có liên hệ với Viện Thẩm Mỹ Bích ngọc, nay đang bắt bồ với ông
Tướng.Tôi đặt tên là bà Cloudy. Khi chiếc phi cơ Air Vietnam đáp xuống Phú Bài,
Đại Uý Đan chạy đi đón. Tôi đứng laị chờ bên chiếc trực thăng. Khi vừa thấy bà
Cloudy bước tới một người lính cận vệ của Tướng L. nói lớn “ Bà Tướng tớí rồi”
Tôi bổng nổi điên đá chàng này một phát, nói”Bà Tướng cái gì.” Vừa lúc Đại Uý
Đan đưa bà Cloudy lên ghế giửa phi cơ.Tôi chỉ gật đầu chào rồi bước lên khi phi
hành đoàn nổ máy. Lần này, tôi biết mình phải chuẩn bị lên đường. Tôi không thể
ngồi vào những chổ làm ra tiền cho cấp trên vì quen thói thẳng thắn. Nhưng cứ
thây kệ Mình là SQ hiện dịch phải sống chết với Quân Đội. Được vài hôm sau khi
bà Cloudy rời Hương Điền về Sài Gòn, Tướng Tư Lệnh gọi tôi vào. Ông nghiêm nghị
lặng thinh một lát rồi nhếch mép nói “Tôi nghe nói mấy anh Sĩ quan Đà Lạt được
huấn luyện rất gallant với mấy bà. Sao ông lại có thái độ với bà V. như thế “
Tôi đáp ngay “ Như tôi đã trình bày với Thiếu Tướng, tôi không thể làm Chánh
Văn Phòng được. “ Rồi tôi chậm rải nói tiếp :” Thiếu Tướng đưa tôi đi đâu cũng
được kể cả đơn vị tác chiến “Ông Tướng không nhìn tôi và không nói gì thêm sau
khi đưa tay ra hiệu tôi ra khỏi phòng. Tôi thơ thẩn ra ngôi nhà sàn làm
quán nhậu của một người dân đánh cá, bên bờ Phá Tam Giang, gọi chai bia Con Cọp
và miếng nực khô, ngắm cảnh sông nước nổi trôi. Tôi bổng nhớ lại ngày tôi cùng
Nguyễn Đằng Tống, Đỗ Hữu Tùng mới ra trường về được đưa ngay xuống tàu về Cà
Mâu gặp đơn vị.Sau khi chạy theo đám lính đổ bộ với hai bàntay trắng lên Năm
Căn. Đại Uý BTL gọi lên trình diện. Ngay giửa rừng đước sình lầy, chúng tôi
đứng nghiêm chờ trong khi ông cứ mải cúi nhìn xem bản đồ.Mãi một lúc sau, ông
nhìn lên, nói không hở môi” Trường Đà Lạt dạy các ông như thế à.Chó mèo cũng có
tên” Tôi nổi giận đưa tay chào và la lớn như hồi còn Tân Khóa sinh Võ Bị, ngay
giửa vùng hành quân:” Thiếu Uý T. N. T. số quân.. trình diện Đại Uý. Kế tiếp là
Tống và Tùng. Sau đó ba đứa tôi được phát 3 khẩu Shotgun lội theo 3 Đại đội cho
hết cuộc hành quân Sóng Tình Thương. Đại Uý L. chỉ ở Tiểu Đòan 1 năm rồi về lại
Bộ Tư Lệnh do sức khỏe yếu kém. Ngày hôm sau, Đại Tá Phạm Văn Chung, Tham
Mưu Trưởng hành quân gọi tôi lên bảo Ông Tứơng nói cậu ra ngồi Phòng 3 lo việc
tổ chức huấn luyện về Hành Quân Thủy Bộ cho các Sĩ quan cấp Đại đội trưởng, ở
các Bộ Chỉ Huy Lữ Đòan. Tôi vui vẻ trình diện Trung Tá Đỗ Kỳ và bắt tay ngay
vào việc vì đó là “Nghề của chàng”. Tôi tha hồ gặp lại đám bạn bè cùng khóa bên
Nhảy Dù, Không Quân, Bộ binh từ Huế ra Quảng trị.Nguyễn Xuân Phúc bảo mày ra
tác chiến với tụi tao đi.Làm Chánh” Văn buồng” như đi bưng bô cho ngưòi ta ị
vậy. Sống chết có số cả mày ơi.
Qua đến đầu tháng 10 năm 1973, một sáng
sớm, khi Quảng Trị và Huế đang chìm ngập trong cơn lũ lụt tháng 10, Đại Tá
Chung gọi tôi bảo mang ba –lô lên xe của Phòng 3 chạy ra Chợ Cạn, Quảng Trị để
nhận bàn giao Tiểu đoàn 4 TQLC, với bạn cùng khóa Võ Bị Nguyễn Đằng Tống. Tống
đựơc phép về Sài Gòn cưới vợ và trở ra làm Lữ Đoàn Phó LĐ 147 cho Quyền Lữ Đoàn
Trưởng Đỗ Hữu Tùng, cũng là bạn cùng khóa 16 Võ Bị. “Ba Trái Thúi” ngày xưa ở
Tiểu đoàn 4 TQLC nay gặp lại nhau trên chiến trường Hỏa Tuyến Quảng Trị sôi sục
lửa đạn.
“ Chàng từ đi
vào nơi gió cát,
Đêm trăng này
nghỉ mát nơi nao….” ( Chinh Phụ Ngâm)
Trần Ngọc Toàn