Andrew Lâm
là một nhà văn trẻ, Việt Kiều, khá thành công trong những bài viết của ông về
cộng đồng Việt cho độc giả Mỹ. Anh là con trai của Cựu Trung Tướng Lâm Quang
Thi. Bài được viết theo tâm sự của mẹ tác giả, bà Lâm Quang Thi.
Người Việt có một câu nói: Mỹ là
thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Nay tôi đã vào cái tuổi giữa 70, câu
nói này thật là thấm thía. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu
nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề
(theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn.
Căn bản nếp sống của người Việt dựa
vào gia đình, cộng đồng, và khi ta mất những cái đó, ta mất đi một phần lớn cái
tôi. Khi còn sống ở Việt Nam, tôi không bao giờ nghĩ đến việc sinh sống tại một
nơi nào khác ngoài quê hương. Ta sống và chết nơi tiền nhân đã sống và đã chết.
Ta có thân nhân, dòng họ; ta có gia đình, có những miếu đền.
Một khi ta đã quen miền đất với mồ
mả tổ tiên, ta sẽ không còn sợ tử thần và cái chết. Nhưng tại Mỹ, lối sống cũ
của chúng ta không còn nữa. Chúng ta bị buộc phải ra đi khi cuộc chiến kết thúc
vào năm 1975, và chúng ta đã sống xa xứ từ lúc đó. Ngày nay, bạn bè và thân
nhân của chúng ta tản mạn khắp nơi trên thế giới.
Tại Mỹ, càng già càng mất mất nhiều
– bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình.
Chuông điện thoại kêu. Tôi nhấc ống máy. Đây là bà tên-này-tên-nọ ở Los
Angeles. Bà mắc bệnh tiểu đường và mới bị cưa chân. Rồi chuông điện thoại lại
reo nữa: Ông tên-ni-tên-nớ ở Georgia bị ung thư phổi, chỉ còn sống khoảng vài
tháng. Ở Việt nam, chúng tôi đều là bạn thân. Nhưng với cái tuổi đời chồng chất
như tôi, tôi làm sao đến thăm họ được khi họ hàng ngàn cây số cách xa? Làm sao
ta tưởng tượng được đến việc gọi điện thoại cho người bạn thân khi họ nằm chờ
chết trong bệnh viện, để nói lời xin lỗi là không thể tận mình đến viếng thăm
được lần cuối. Ấy vậy, tôi làm điều này mỗi tháng, buồn lắm.
Tôi và chồng tôi, chúng tôi dự định
đi một chuyến du lịch Âu châu vào kỳ hè tới đây. Chuyến đi này là chuyến đi
cuối cùng, để nói lời giã biệt thân nhân bè bạn. Chúng tôi biết là sau chuyến
đi này, chúng tôi sẽ không đi đây đi đó được nữa vì sức khỏe đã kém, sẽ không
thấy mặt họ nữa. Tôi gần như không bước xuống được cầu thang nhà vì đầu gối
chân rất đau. Nhà thì đã bán, giờ thì chúng tôi ở trong một chung cư có thang
máy vì đó là điều kiện duy nhất mà chúng tôi có thể sống độc lập không nhờ vả
đến ai bây giờ.
Điều mà tôi quan tâm nhất là trí nhớ
suy sụp rất nhiều. Tôi là người giữ gia phả của dòng họ, nhưng tất cả đều nằm ở
trong đầu. Biết ai liên quan với ai như thế nào trong họ là nghề đặc biệt của
tôi, người con gái trưởng trong nhà. Nhưng không một đứa con nào của tôi biết
được những mối dây liên hệ gia đình trong gia tộc, ngay cả đến những người em
của chính tôi. Không có tôi, họ hàng thân thích sẽ trở thành kẻ xa lạ nếu tình
cờ gặp nhau trên đường phố. Tôi có thể nhớ đến được những bà con cô dì chú bác
ba đời của gia đình bên tôi và của cả bên chồng.
Tôi phải viết xuống trước khi trí
nhớ tôi lụt hết.
Thỉnh thoảng vào buổi sáng khi thức
dậy, tôi lặng nhìn cây cối ngoài phố và tự hỏi tôi đang ở nơi nào. Đôi lúc, tôi
đi sang khu chung cư kế cận, nơi có một số mèo hoang, và cho chúng ăn những
thức ăn thừa. Khi tôi cất tiếng gọi, chúng nhận ra giọng nói của tôi và bổ xua
lại. Bây giờ, chúng là những niềm vui nhỏ của tôi. Đương nhiên những ngày hạnh
phúc nhất là những ngày con cháu đến thăm. Nhưng chúng cũng có đời sống riêng,
thỉnh thoảng chỉ đến chơi được một lúc rồi về, tôi làm gì cho hết những khoảng
thì giờ trống trải sau đó?
Mẹ tôi, bà mất năm bà 97 tuổi, và mẹ
chồng tôi, qua đời lúc 95 tuổi; cả hai người có sống chung trong một khu dưỡng
lão nhiều năm. Tôi thường đi xe buýt đến thăm hai bà mỗi ngày, ngay cả khi còn
đi làm. Từ lúc đó tôi đã biết cái thảm não của người già trên đất Mỹ, ngay khi
tôi còn trẻ trung mạnh khỏe. Các nhân viên điều dưỡng ở đó thường nói với tôi
là hai bà có phước lắm, thường có được con cháu đến thăm. Tôi trả lời: “Đó là
lối sống của người Việt Nam”. Còn những người già khác, con cháu họ ít đến. Tôi
có nhớ một số bà lão, ngồi trên những chiếc xe đẩy, ngóng trông con cháu hay
người thân, ngày này qua ngày khác, nhưng chẳng thấy ai. Có cả một bà cụ, cụ
còn sống lâu hơn những người con trai; mỗi ngày bà vẫn ngồi chờ trông mong hình
ảnh người con trai bước qua khung cửa. Thật tội nghiệp khi người ta sống dai
như vậy trong sự cô đơn!
Ở xứ Mỹ này, tuổi già đúng là tuổi
lỡ thời; cả hai đều không được người ta kính nể hay cho một chút gì quan trọng.
Ở quê nhà, các ông già bà lão thì được nể vì nhất, vì họ là những người chia xẻ
túi khôn cùng kinh nghiệm cho những người đi sau. Điều đó không có ở đây. Không
ai muốn nghe tiếng nói của người già. Họ cảm thấy bị cô lập ngoài vòng ranh
giới của con cháu Mỹ hóa của họ. Chúng cười vang về nhiều thứ mà tôi không hoàn
toàn hiểu được. Mỹ đúng là một quốc gia của giới trẻ hơn là giới già như tôi.
Vào những buổi chiều mùa đông, tôi
ngồi nhìn những hàng cây trơ trụi lá, tâm hồn lạc lõng. Tôi nghĩ về cái thế
giới mà tôi đã biết, nay đã bay xa, như làn khói hương trầm. Tôi nghĩ đến cố
hương, đến những mùa lễ Tết ở Saigon, đến những đám cưới, đám hỏi, đến những
chuyến du lịch, những lần tíu tít họp mặt gia đình, ai ai cũng có mặt, con nít
chạy quanh, người lớn ngồi nói chuyện đời chuyện gẫu, đàn bà con gái quây quần
chung lo việc bếp nước. Và tôi cảm thấy rất khao khát những ngày quá khứ xa
xưa.
Andrew Lâm
Nguyễn Đức Nguyên (chuyển ngữ)